1. Tóm tắt vụ việc
Chào Luật sư! Hiện nhà tôi có sự tranh chấp phần đất do ông bà để lại mà không có di chúc như sau:
Ông nội tôi có 4 người con, 1 nữ và 3 nam, cô Cúc( chị cả) bị tàn tật, ở cùng bà và bố mẹ tôi. Bố tôi là con trưởng nhưng chỉ có mình tôi là con gái. Ngày trước khi còn sống, ông có đứng ra chia cho mỗi người một phần đất, ai nấy đều bằng lòng, chú 2 và chú 3 (mỗi người khoảng 450mv đất) thậm chí còn được nhiều đất hơn bố tôi vì hồi đó (khoảng năm 1980-1990) mọi người không nghĩ là đất đai ngày càng đắt như bây giờ, chú 2 và chú 3 đc chia phần đất ao, bố tôi con trưởng nên được ở mảnh đất của ông bà là đất vườn và có 1 phần ao. Ông nội tôi chỉ chia bằng miệng, cũng không nói gì đến phần đất cho cô vì cô với ông bà đều ở cùng mảnh đất nhà tôi, cô tàn tật nên không lấy chồng. Cô với bà ở căn nhà mà khi xưa bố tôi phải làm lụng, gánh đất, mua từng viên gạch để xây. Năm 2003, bố tôi có bán đi 1 phần đất là 360mét vuông (có sự đồng ý của cô), với giá 400.000 đồng/mét vuông, được khoảng 140 triệu đồng, có cho cô 50 triệu (tương ứng với 120 mét vuông), còn lại để xây căn nhà hiện tại gia đình tôi đang ở. Đến giờ, chú 2 và chú 3 cũng đã bán phần đất của mình. Cô ở với gia đình tôi, tiền điện nước đều là mẹ tôi trả, đất đai do nhà tôi đóng thuế vì cô tàn tật, sống bằng tiền nhà nước trợ cấp, thi thoảng các chú cho gạo, bố tôi cho tiền, và nhiều bữa ăn cùng nhà tôi, ốm đau thì mẹ tôi cũng nghỉ làm đưa đi khám, lấy thuốc. hồi khó khăn, nhà tôi có làm sổ đỏ để bán đất, khi ấy thống nhất là hợp phần đất còn lại của cả cô và bố lại làm một (khoảng 300mét vuông), nhưng không rõ cô được hưởng bao nhiêu mét vuông, nhà tôi có hứa là sẽ trả lại phần đất cho cô. Năm ngoái, chú thứ 2 và con dâu của chú bắt nhà tôi trả đất cho cô để xây nhà thờ mặc dù 5 6 năm không hề sang cúng hay thắp 1 nén hương. Còn hiện tại, không biết cô đi nghe ở đâu về, bắt bố mẹ tôi trả đất, bố mẹ tôi đồng ý cắt sổ để chia cho cô 100mét vuông nữa, nhưng cô nhất quyết không chịu, đòi phải chuộc mảnh đất ngoài ngõ(khoảng 70 mét vuông) đã bán năm 2003 (có cho cô 50 triệu nói trên) về cho cô. Cô còn bảo là chả có 50 triệu nào cho cô, dù số tiền ấy đang được gửi trong ngân hàng do chú thứ 2 quản lí vì cô tàn tật, rồi nói trắng là chẳng nhờ vả gì nhà tôi (dù sống chung suốt hơn 20 năm nay, mẹ tôi lo điện nước, thuế đất cô không phải đóng). Giờ anh em bất bình, bố mẹ tôi ức quá, không biết nói như thế nào. Sổ đỏ mang tên bố mẹ tôi, sống ra sao, đối với cô như thế nào hàng xóm họ chứng kiến. cô lại nói như thế khiến bố tôi rất bực, chia đất thì đòi hỏi quá đáng. Mong nhận được lời khuyên phía luật sư để có thể giải quyết hợp lí vụ này. Nếu theo đúng luật thừa kế, các anh em đều được phần đất bằng nhau, nhưng chú 2 và chú 3 đã bán đất đi rồi thì sẽ tính như thế nào ạ? Rất mong được tư vấn từ phía Luật sư!
2. Tư vấn
Xin chào bạn!
Theo các thông tin mà bạn cung cấp, do đang còn thiếu nhiều thông tin và các thông tin chưa được xác thực cụ thể. Nên chúng tôi chưa có cơ sở để đánh giá một cách đầy đủ và chính thức về nội dung vụ việc. Tuy nhiên chúng tôi có thể đưa ra một số ý kiến pháp lý cho bạn như sau như sau:
Thứ nhất, Theo thông tin từ bạn, thì bố bạn đã làm sổ đỏ đối với mảnh đất của gia đình bạn và đã được cô và bà bạn đồng ý. Điều đó có nghĩa rằng mảnh đất của gia đình bạn có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tải sản khác gắn liền với đất đứng tên bố, mẹ bạn. Theo quy định tại điều 99 luật đất đai năm 2013 thì:
“1. Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho những trường hợp sau đây:
a) Người đang sử dụng đất có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại các điều 100, 101 và 102 của Luật này;
b) Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ sau ngày Luật này có hiệu lực thi hành;
c) Người được chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, được thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất; người nhận quyền sử dụng đất khi xử lý hợp đồng thế chấp bằng quyền sử dụng đất để thu hồi nợ;
d) Người được sử dụng đất theo kết quả hòa giải thành đối với tranh chấp đất đai; theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành;
đ) Người trúng đấu giá quyền sử dụng đất;
e) Người sử dụng đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế;
g) Người mua nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất;
h) Người được Nhà nước thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; người mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước;
i) Người sử dụng đất tách thửa, hợp thửa; nhóm người sử dụng đất hoặc các thành viên hộ gia đình, hai vợ chồng, tổ chức sử dụng đất chia tách, hợp nhất quyền sử dụng đất hiện có;
k) Người sử dụng đất đề nghị cấp đổi hoặc cấp lại Giấy chứng nhận bị mất.Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”.
Như vậy để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất bố bạn đã phải thực hiện những quy trình, thủ tục và đã thoả mãn những điều kiện theo quy định của pháp luật đất đai năm 2013 thì bố bạn mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 6 điều 3 luật đất đai năm 2013 thì:
“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.”.
Do đó việc được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của bố, mẹ bạn chính là căn cứ pháp lý xác thực nhất để xác định quyền sử dụng dụng đất của bố, mẹ bạn. Bố, mẹ bạn sẽ có toàn quyền sử dụng, quản lý, định đoạn đối với mảnh đất này, bao gồm các quyền như chuyển nhượng, tặng cho, để lại thừa kế… Nếu cô của bạn muốn trả lại một phần diện tích đất trong phần đất mà bố, mẹ bạn đứng tên và phần đất mà bố, mẹ bạn đã bán. Thì cô của bạn phải đưa ra được cơ sở pháp lý, chứng cứ chứng minh yêu cầu trên của cô bạn là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Trên đây là một số đánh giá của chúng tôi về sự việc của bạn.
Trong trường hợp bạn có khúc mắc hay băn khoăn gì cần chúng tôi giải đáp thêm. Xin vui lòng liên hệ với Công ty cổ phần tư vấn Luật C.Law, địa chỉ 107 Ngyễn Tuân, Thanh Xuân, TP. Hà Nội; SĐT: 0902631113 để được giải đáp.
Trân trọng!